Bài học đường đời đầu tiên

I. VỀ TÁC

GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Thể loại
Truyện là một “phương thức tái hiện đời sống trong
toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm truyện (tự sự) phản ánh hiện thực qua
bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian; qua các sự kiện, biến
cố xảy ra trong cuộc đời của con người. Trong các tác phẩm tự sự, nhà văn cũng
thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình; nhưng ở đây, tư tưởng, tình cảm của nhà
văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của con người tới mức
giã chúng dường như không có sự phân biệt nào cả. Nhà văn kể lại, tả lại những
gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được
phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình đang tự phát triển, tồn
tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn”

(Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992).
Các bài học: Bài học
đường đời đầu tiên
 (trích trong Dế Mèn
phiêu lưu kí
 của Tô Hoài), Sông nước
Cà Mau 
(trích Đất rừng phương Nam của
Đoàn Giỏi), Bức tranh của em gái tôi
(của Tạ Duy Anh), Vượt thác (trích Quê nội của Võ Quảng), Buổi học cuối cùng (của An-phông-xơ Đô-đê)
thuộc thể loại truyện hiện đại.
2. Tác giả
Nhà văn Tô Hoài (tên khai sinh là Nguyễn Sen), sinh ngày
27 tháng 9 năm 1920 tại thị trấn Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội; quê quán: thị trấn
Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Tô Hoài tham gia cách mạng từ trước
Cách mạng tháng Tám (1945) trong Hội ái hữu công nhân, Hội Văn hoá Cứu quốc. Từ
1945 – 1958 ông làm phóng viên rồi Chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc. Từ 1957 –
1958: Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1958 – 1980: Phó Tổng thư kí
Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ 1986 – 1996: Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Tác phẩm đã xuất bản: 150 tác phẩm trong đó nổi bật là Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện dài, 1942, tái
bản nhiều lần); Quê người (tiểu thuyết
1943, tái bản nhiều lần). Truyện Tây Bắc
(tiểu thuyết, 1954, tái bản nhiều lần); Miền
Tây
 (tiểu thuyết 1960, tái bản nhiều lần); Tự truyện (hồi ký, 1965, tái bản nhiều lần); Quê nhà (tiểu thuyết, 1970); Cát
bụi chân ai
 (hồi ký, 1965, tái bản nhiều lần); Tuyển tập Tô Hoài (3 tập, 1993). Tuyển tập truyện ngắn Tô Hoài (trước và sau 1945, ba tập, 1994); Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi (hai
tập, 1994).
Nhà văn đã được nhận: Giải nhất tiểu
thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam
1956 (tiểu thuyết Truyện Tây Bắc). Giải
A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 (tiểu thuyết Quê nhà); Giải thưởng của Hội Nhà văn Á – Phi năm 1970 (tiểu thuyết
Miền Tây); Giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học – Nghệ thuật (đợt I – 1996).
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Đoạn trích Bài học
đường đời đầu tiên
 thể hiện tài quan sát và miêu tả tinh tế của nhà văn Tô
Hoài. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất (lời nhân vât Dế Mèn) biến hoá sinh động và
hấp dẫn người đọc.
Bài
văn này có thể chia làm ba đoạn:
+ Đoạn 1: Từ đầu đến … “có thể sắp đứng đầu
trong thiên hạ”. Đoạn này miêu tả vẻ đẹp cường tráng nhưng tính cách còn kiêu căng
của Dế Mèn.
+ Đoạn 2: Tiếp theo đến … “mang vạ vào mình đấy”:
Mèn trêu chị Cốc và gây ra cái chết thảm thương cho Dế Choắt.
+ Đoạn 3: còn lại: sự ân hận của Dế Mèn.
2. Dế Mèn có một ngoại hình cường
tráng. Với đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn
hoắt, đôi cánh… bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi, lại thêm đầu…
to ra và nổi từng tảng rất bướng, hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm
ngoạp như hai lười liềm máy làm việc…, Dế Mèn thật ra dáng con nhà võ. Oai
phong hơn, Dế Mèn còn có sợi râu… dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Dương
dương tự đắc, chú ta đi đứng oai vệ, luôn tranh thủ mọi cơ hội để thể hiện mình.
Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, chú ta “co cẳng lên
đạp phanh phách vào các ngọn cỏ” hay chốc chốc lại trịnh trọng và khoan
thai đưa cả hai chân lên vuốt râu. Tự cho mình là nhất, chú không ngần ngại cà
khịa với tất cả mọi bà con trong xóm (quát các chị Cào Cào, đá anh Gọng Vó,…).
Tác giả vừa miêu tả ngoại hình vừa
miêu tả hành động để bộc lộ tính cách của Dế Mèn: kiêu căng, xốc nổi, điệu đàng,
hung hăng và ngộ nhận. Trong đoạn văn, các tính từ miêu tả hình dáng (cường tráng,
mẫm bóng, nhọn hoắt, hủn hoẳn, giòn giã, bóng mỡ, đen nhánh, ngoàm ngoạp…); tính
từ miêu tả tính cách (bướng, hãnh diện, trịnh trọng, khoan thai oai vệ, tợn, giỏi,
ghê gớm…) được thể hiện đặc sắc. Nếu thay thế một số từ của tác giả bằng các
từ đồng nghĩa (hoặc gần nghĩa) như đôi càng mẫm bóng bằng đôi càng mập bóng, đôi
càng to bóng…, ngắn hủn hoẳn bằng ngắn củn, ngắn tủn, ngắn cũn cỡn…, đi đứng
oai vệ bằng đi đứng chững chạc, đi đứng đàng hoàng, đi đứng oai lắm… sự diễn đạt
sẽ thiếu chính xác và thiếu tinh tế.
3. Thái độ của Dế Mèn với Dế Choắt
là kẻ cả, trịch thượng (qua cách đặt tên là Dế Choắt, ví von so sánh như gã
nghiện thuốc phiện, xưng hô chú mày, tính tình khinh khỉnh, giọng điệu bề trên,
dạy dỗ). Không những thế, Dế Mèn còn tỏ ra ích kỉ, không cho Dễ Choắt thông ngách
sang nhà, lại còn mắng “Đào tổ nông thì cho chết”.
4. Khi trêu chị Cốc, Dế Mèn thật hung hăng, kiêu ngạo:
“Sợ gì  ? Mày bảo tao sợ cái gì  ? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa
!”. Thậm chí, hát trêu xong, Dế Mèn vẫn tự đắc, thách thức: “Mày tức
thì mày cứ tức, mày ghè đầu mày ra cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu thì mày cũng không
chui nổi vào tổ tao đâu !”. Nhưng khi chứng kiến chị Cốc đánh Choắt, Dế Mèn
khiếp hãi “nằm im thin thít”. Biết chắc chị Cốc đi rồi, mới dám
“mon men bò lên”. Từ hung hăng, kiêu ngạo, Dế Mèn trở nên sợ hãi, hèn
nhát.
Bài học đường đời đầu tiên Dế Mèn rút
ra chính là sự trả giá cho những hành động ngông cuồng thiếu suy nghĩ. Bài học ấy
thể hiện qua lời khuyên chân tình của Dế Choắt: “ở đời mà có thói hung hăng
bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy”.
Đó cũng là bài học cho chính con người.
5. Các con vật được miêu
tả trong truyện ngoài những đặc điểm vốn có của chúng trong thực tế, chúng còn được
nhà văn gắn thêm cho những phẩm chất của con người (đặc biệt là về tính cách).
Những sự việc xảy ra trong truyện giữa các con vật với nhau thực ra chính là
chuyện trong thế giới con người. Các truyện cổ tích về loài vật, các truyện ngụ
ngôn (của Ê-Dốp, La-Phông-Ten,…), truyện Cuộc phiêu lưu của Gulliver,…là
những truyện có cách viết giống như Dế Mèn phiêu lưu kí.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt
Chàng thanh niên Dế Mèn cường tráng, khoẻ mạnh nhưng kiêu
căng tự phụ về vẻ đẹp và sức mạnh của mình, hay xem thường và bắt nạt mọi người.
Một lần, Mèn bày trò trêu chọc Cốc để khoe khoang trước anh hàng xóm Dế Choắt,
dẫn đến cái chết thảm thương của người bạn xấu số ấy. Cái chết của Choắt làm Mèn
vô cùng hối hận, ăn năn về thói hung hăng bậy bạ của mình.
2. Cách đọc
Khác với các truyện dân gian hoặc
truyện trung đại, Dế Mèn phiêu lưu kí có cách viết hiện đại với các tình tiết
phong phú, phức tạp, các nhân vật được miêu tả kĩ lưỡng với các chi tiết về ngoại
hình, hành động, đặc điểm tâm lí… Đọc diễn cảm đoạn văn này cần chú ý giọng điệu,
thái độ của tác giả khi miêu tả, diễn biến tâm lí của các nhân vật:
a) Đọc đoạn thứ nhất cần lên giọng để
vừa thể hiện được vẻ đẹp cường tráng đồng thời diễn tả được thái độ tự phụ, huênh
hoang của Dế Mèn.
b) Đọc đoạn thứ hai chú ý giọng đối
thoại phù hợp với diễn biến tâm lí của từng nhân vật:
– Dế Mèn: kẻ cả, hung hăng, hoảng hốt,
ân hận…
– Dế Choắt: run rẩy, sợ hãi, cố sức
khuyên can Dế Mèn…
– Chị Cốc: tức giận.
3. Viết đoạn văn diễn
tả lại tâm trạng của Dế Mèn (theo lời của Dế Mèn) sau khi chôn cất xong Dế Choắt.
Gợi ý: Chú ý vào ngôi kể và tâm trạng
hối hận ăn năn của Dế Mèn. Có thể tham khảo đoạn văn sau.
Tôi cảm thấy hối hận và đau xót lắm. Trò đùa ngỗ ngược
của tôi đã khiến cho anh Choắt phải vạ lây. Tôi giận cái thói huênh hoang, hống
hách của mình. Càng nghĩ đến lời anh Choắt, tôi càng thấy thấm thía hơn. Hôm
nay, cũng may mà thoát nạn nhưng nếu không cố mà sửa cái thói hung hăng bậy bạ đi
thì khéo sớm muộn rồi tôi cũng sẽ tự rước hoạ vào mình. Sự việc hôm nay quả thực
đã dạy cho tôi một bài học đường đời quá lớn. Chắc cho đến mãi sau này, tôi cũng
không thể nào quên. 
CÓ THỂ BẠN ĐANG TÌM