Lao xao

Duy Khán
I. VỀ TÁC GIẢ
Nhà văn Duy Khán (tên đầy đủ: Nguyễn
Duy Khán) sinh năm 1934, mất năm 1993; nguyên quán: Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh;
trú quán: thành phố Hải Phòng; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Duy Khán sinh trưởng trong gia đình
nông dân nghèo. Học dở dang trong vùng tạm chiếm, trốn ra vùng tự do nhập ngũ.
Trước ở bộ binh, sau về quân chủng Phòng không Không quân. Từng làm giáo viên văn
hoá trong quân đội, rồi chuyển làm phóng viên phát thanh quân đội, thường xuyên
đi sát các đơn vị chiến đấu, tham gia chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971, chiến dịch
Quảng Trị 1972. Về tạp chí Văn nghệ quân đội làm biên tập viên, phóng viên,
Lao xao

tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
Tác phẩm đã xuất bản: Trận mới (tập thơ, 1972); Tuổi thơ im lặng (truyện, 1986); Tâm sự người đi (tập thơ, 1987).
Nhà văn đã được nhận Giải thưởng văn
học Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 với tác phẩm: Tuổi thơ im lặng.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Trong khi tả số rất nhiều loại
chim, tác giả lựa chọn để sắp xếp theo trình tự từng nhóm loài gần nhau.
– Đầu tiên là nhóm những loài chim
“đều có họ với nhau. Họ của chúng đều hiền cả” (bồ các, chim ri, sáo
sậu, sáo đen, tu hú), tiếp đó đến bước trung gian là các loài chim nhạn, bìm bịp,
chim ngói…, sau cùng là nhóm những loài chim ác (diều hâu, chèo bẻo, quạ đen,
quạ khoang, cắt,…).
– Cách dẫn dắt lời kể rất tự nhiên:
từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em sang chuyện các loài chim. Mặc dù
mục đích chính là miêu tả thiên nhiên, tả các loài chim nhưng bài văn hẳn sẽ mất
đi rất nhiều cảm giác kì thú nếu như không được miêu tả qua con mắt, trí tưởng
tượng của một cậu bé. Một thiên nhiên trong sáng, đầy màu sắc và ăm ắp những kỉ
niệm, những lời văn tươi rói như chưa ráo mực: Chúng tôi chạy ùa ra, con cắt còn
ngấp ngoải. Bây giờ tôi mới tận mắt nhìn thấy con cắt… khiến cho bài văn có một
sức sống mạnh mẽ và vô cùng tươi tắn.
2. Về các loài chim, tác giả sử dụng
cách kể như không phải bằng văn mà là lời nói thường, cũng không phải do ai gợi
ra mà bắt đầu từ tiếng kêu của loài bồ các để dẫn dắt lời kể; tiếp sau đó vận dụng
cấu trúc của đồng dao dân gian để phát triển mạch kể. Mạch kể giữa các loài
chim hiền với các loài chim ác được tiếp nối bởi sự xuất hiện của các loài chim
ngói, chim nhạn và chim bìm bịp. Đặc biệt, sự xuất hiện của chim bìm bịp như là
“cầu nối” (khi nó kêu thì một loạt chim ác, chim xấu mới ra mặt). Đồng
thời, trong từng nhóm loài, tác giả dùng các hình ảnh sinh hoạt, tập tính của
chúng để xâu chuỗi thành mạch văn phát triển hợp lí và sinh động.
Trong bài văn,
tác giả đã kết hợp tả và kể khá nhuần nhuyễn. Chẳng hạn: đang tả sáo sậu, sáo đen
hiền thì xen kể “con sáo đen tọ toẹ học nói”; đang kể con tu hú lại kể
về sự xuất hiện của mùa tu hú trong vườn nhà ông Tấn; hoặc đang kể về nguồn gốc
con “bìm bịp” lại tả màu sắc, sau đó trở lại kể về môi trường sống
của nó… Sự kết hợp tả và kể còn được thể hiện trong mối quan hệ đấu tranh
sinh tồn giữa các loài, chẳng hạn: việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo,
giữa chèo bẻo và chim cắt.
Ở đoạn đầu bài văn, tác giả viết: Giời
chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm
 – tác giả vừa kể vừa tả, tả rồi lại kể,
sau đó lại tả: Cây hoa lan nở hoa trắng xoá… Cũng như vậy, kết hợp tả
và kể về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát rất tinh tế, vừa
thay đổi được giọng văn làm cho mạch văn uyển chuyển, sinh động; đồng thời qua đó
cũng thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết giữa tác giả và thiên nhiên.
3. Một vẻ đẹp khác của bài văn là cách
sử dụng và chuyển hoá các chất liệu văn hoá dân gian, chủ yếu là các thành ngữ,
các câu hát đồng dao hay thậm chí cả những câu chuyện cổ tích. Ví dụ:
Chị Diệp nhanh nhảu:
– Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu
là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ các…
Câu hát đồng dao phổ biến của trẻ
em đã được thể hiện qua lời nói của nhân vật khiến cho bạn đọc có cảm giác được
sống trong một bầu không khí rất đỗi quen thuộc của văn hoá dân gian.
Cũng theo cách thức tương tự, rất
nhiều thành ngữ (Kẻ cắp gặp bà già, Lia lia láu láu như quạ dòm chuồng lợn) và
các chi tiết trong truyện cổ tích (Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo)
được đưa vào tác phẩm làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể sinh động mà
gần gũi với đời sống con người; song đôi khi chính cách nhìn nhận và đánh giá ấy
cũng mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng. Ví dụ: tiếng kêu của chim bìm bịp
làm cho các loài chim ác xuất hiện…
4. Bài văn đã đem đến những hiểu biết
thú vị về đặc điểm, tập tính, hình dáng của một số loài chim, điều đó giúp chúng
ta yêu mến hơn và có tinh thần trân trọng giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh
sắc quê hương.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt
Trời chớm hè, cây cối um tùm, ngát hương hoa, bướm ong rộn
rịp xôn xao. Thế giới các loài chim ở đồng quê hiện lên thật sinh động dưới ngòi
bút của tác giả. Bồ các to mồm. Chị Điệp nhanh nhảu. Rồi sáu sậu, sáo đen, tu hú,
chim ngói, chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp suốt ngày đêm rúc
trong bụi cây, diều hâu hung ác bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn,
chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ.
Chim cắt hung dữ, không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho
ngắc ngoải.
2. Cách đọc
Tác giả vừa kể xen lẫn miêu tả. Cần
đọc chậm, thể hiện sự quan sát ngộ nghĩnh và cách miêu tả sinh động tập tính của
các loài chim.
3. Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.
Gợi ý: cần triển khái các ý sau.
– Loài chim mà em định miêu tả là gì?
– Nó có nhiều ở quê em không? Nó thường xuất hiện vào mùa
nào?
– Miêu tả vẻ bên ngoài của loài chim ấy.
– Thói quen của loài chim ấy là gì?
– Sự xuất hiện của loài chim đó gợi cho em sự thích thú
ra sao?
CÓ THỂ BẠN ĐANG TÌM