Cô Tô
Nguyễn Tuân
I. VỀ TÁC
GIẢ VÀ TÁC PHẨM
GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Thể loại
Kí là “một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo
chí và văn học, gồm nhiều thể – chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật
kí, tuỳ bút,…” (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học, sđd).
chí và văn học, gồm nhiều thể – chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật
kí, tuỳ bút,…” (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học, sđd).
Các bài học: Cô Tô
(của Nguyễn Tuân), Cây tre Việt Nam (của Thép Mới), Lòng yêu nước (của I.Ê-ren-bua), Lao xao (của Duy Khán) thuộc thể loại kí.
(của Nguyễn Tuân), Cây tre Việt Nam (của Thép Mới), Lòng yêu nước (của I.Ê-ren-bua), Lao xao (của Duy Khán) thuộc thể loại kí.
2. Tác giả
Nhà văn Nguyễn Tuân (còn có các bút danh khác: Ngột Lôi
Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc) sinh ngày 10 tháng
7 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán: làng Mọc, thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (nay là
phường Nhân Chính), quận Thanh Xuân, Hà Nội; mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà
Nội; Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc) sinh ngày 10 tháng
7 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán: làng Mọc, thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (nay là
phường Nhân Chính), quận Thanh Xuân, Hà Nội; mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà
Nội; Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Thời thanh, thiếu niên, Nguyễn Tuân
theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung: Khánh
Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Ông học đến bậc trung
học ở thành phố Nam Định. Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khoá, bị đuổi học
và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, ông đã hai lần bị bắt, bị tù (một lần
tại Băng Cốc – Thái Lan và bị giam tại Thanh Hoá (1930) và lần thứ hai bị bắt tại
Hà Nội, giam tại Nam Định (1941).
theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung: Khánh
Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Ông học đến bậc trung
học ở thành phố Nam Định. Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khoá, bị đuổi học
và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, ông đã hai lần bị bắt, bị tù (một lần
tại Băng Cốc – Thái Lan và bị giam tại Thanh Hoá (1930) và lần thứ hai bị bắt tại
Hà Nội, giam tại Nam Định (1941).
Từ những năm 30 của thế kỉ XX, Nguyễn
Tuân bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí: Trung Bắc
tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Thanh nghị, Tiểu
thuyết thứ bảy. Từ 1937, ông chuyên sống bằng nghề viết văn và nổi tiếng từ
1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời,…
Tuân bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí: Trung Bắc
tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Thanh nghị, Tiểu
thuyết thứ bảy. Từ 1937, ông chuyên sống bằng nghề viết văn và nổi tiếng từ
1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời,…
Sau Cách mạng, năm 1946, Nguyễn Tuân
cùng với đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại Khu Năm (Trung Bộ). Năm 1947, ông phụ
trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1996, ông giữ trách nhiệm Tổng thư
kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Thời gian này, ông đã tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để
sáng tác. Sau 1954, Nguyễn Tuân sống và hoạt động văn nghệ ở Hà Nội. Từ năm
1958, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt
Nam
(khoá I và II).
cùng với đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại Khu Năm (Trung Bộ). Năm 1947, ông phụ
trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1996, ông giữ trách nhiệm Tổng thư
kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Thời gian này, ông đã tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để
sáng tác. Sau 1954, Nguyễn Tuân sống và hoạt động văn nghệ ở Hà Nội. Từ năm
1958, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt
Nam
(khoá I và II).
Những tác phẩm đã xuất bản: Ngọn đèn dầu lạc (phóng sự, 1939); Vang bóng một thời (truyện ngắn, 1940); Chiếc lư đồng mắt cua (tùy bút, 1941); Tóc chị Hoài (tuỳ bút, 1943); Tuỳ bút II (tuỳ bút, 1943); Nguyễn (truyện ngắn, 1945); Chùa Đàn (truyện, 1946); Đường vui (tuỳ bút, 1949); Tình chiến dịch (bút kí, 1950); Thắng càn (truyện, 1953); Chú Giao làng Seo (truyện thiếu nhi,
1953); Đi thăm Trung Hoa (bút kí,
1956); Tuỳ bút kháng chiến (tuỳ bút,
1955); Tùy bút kháng chiến và hoà bình
(tuỳ bút, 1956); Truyện một cái thuyền đất
(truyện thiếu nhi, 1958); Sông Đà (tuỳ
bút, 1960); Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (tuỳ
bút, 1972); Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập
I: 1981, tập II: 1982).
1953); Đi thăm Trung Hoa (bút kí,
1956); Tuỳ bút kháng chiến (tuỳ bút,
1955); Tùy bút kháng chiến và hoà bình
(tuỳ bút, 1956); Truyện một cái thuyền đất
(truyện thiếu nhi, 1958); Sông Đà (tuỳ
bút, 1960); Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (tuỳ
bút, 1972); Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập
I: 1981, tập II: 1982).
Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn viết tiểu
luận phê bình văn học và dịch giới thiệu văn học. Nhà văn đã được nhận: Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996).
luận phê bình văn học và dịch giới thiệu văn học. Nhà văn đã được nhận: Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996).
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài văn có thể chia làm ba đoạn:
– Đoạn 1 (Từ đầu đến “theo mùa sóng ở đây”):
Cảnh đẹp của Cô Tô sau trận bão đi qua.
Cảnh đẹp của Cô Tô sau trận bão đi qua.
– Đoạn 2 (Từ “Mặt trời lại rọi lên”
đến “là là nhịp cánh”):Cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ khi mặt trời mọc
trên biển.
đến “là là nhịp cánh”):Cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ khi mặt trời mọc
trên biển.
– Đoạn 3 (Từ “Khi mặt trời đã lên”
đến hết): Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô.
đến hết): Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô.
2. Vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi
qua được tác giả thể hiện qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh đáng
chú ý:
qua được tác giả thể hiện qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh đáng
chú ý:
– Một ngày trong trẻo, sáng sủa;
– Cây thêm xanh mượt;
– Nước biển lam biếc đặm đà hơn;
– Cát lại vàng giòn hơn;
– Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi.
Ở đây, các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng
(trong trẻo, sáng sủa, trong sáng, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn) trong kết cấu
câu văn đặc tả nhấn mạnh (thêm, hơn) đã làm nổi bật các hình ảnh (bầu trời, nước
biển, cây trên núi đảo, bãi cát), khiến cho khung cảnh Cô Tô được hiện lên thật
trong sáng, tinh khôi.
(trong trẻo, sáng sủa, trong sáng, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn) trong kết cấu
câu văn đặc tả nhấn mạnh (thêm, hơn) đã làm nổi bật các hình ảnh (bầu trời, nước
biển, cây trên núi đảo, bãi cát), khiến cho khung cảnh Cô Tô được hiện lên thật
trong sáng, tinh khôi.
Nghệ thuật dùng tính từ đặc tả nói trên kết
hợp với việc chọn điểm nhìn từ trên cao, tác giả giúp người đọc cùng hình dung
và cảm nhận về vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô.
hợp với việc chọn điểm nhìn từ trên cao, tác giả giúp người đọc cùng hình dung
và cảm nhận về vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô.
3. Đoạn
tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện
qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời,
ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi; mặt trời nhú lên dần dần, tròn trĩnh
phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn; quả trứng hồng hào thăm
thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân
trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; y như một mâm lễ phẩm)… Qua cách chọn
lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ.
Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô
được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm
giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ.
tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện
qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời,
ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi; mặt trời nhú lên dần dần, tròn trĩnh
phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn; quả trứng hồng hào thăm
thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân
trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; y như một mâm lễ phẩm)… Qua cách chọn
lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ.
Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô
được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm
giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ.
4. Trong
đoạn cuối, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo được miêu tả qua
những chi tiết, hình ảnh:
đoạn cuối, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo được miêu tả qua
những chi tiết, hình ảnh:
– Quanh giếng nước ngọt: vui như một cái bến
và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền (sử dụng hình ảnh so sánh);
và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền (sử dụng hình ảnh so sánh);
– Chỗ bãi đá, bao nhiêu là thuyền của hợp tác
xã đang mở nắp sạp (sử dụng lượng từ không xác định);
xã đang mở nắp sạp (sử dụng lượng từ không xác định);
– Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về
(sử dụng liên từ và điệp từ);
(sử dụng liên từ và điệp từ);
Đó là cảnh sinh hoạt và lao động
khẩn trương, tấp nập. Đó cũng là khung cảnh của cuộc sống thanh bình sau bão:
“Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh
biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Hình ảnh so sánh liên tưởng độc
đáo này thể hiện sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể
hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân – “người đi tìm cái đẹp”
toàn bích và hài hoà.
khẩn trương, tấp nập. Đó cũng là khung cảnh của cuộc sống thanh bình sau bão:
“Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh
biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Hình ảnh so sánh liên tưởng độc
đáo này thể hiện sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể
hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân – “người đi tìm cái đẹp”
toàn bích và hài hoà.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Cách đọc
Khi đọc bài văn, chú ý nhấn giọng thể hiện sắc thái miêu
tả qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh có tính gợi cảm; các liên tưởng
độc đáo của tác giả khi tái hiện cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo.
tả qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh có tính gợi cảm; các liên tưởng
độc đáo của tác giả khi tái hiện cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo.
2. Viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc (trên biển, trên
sông, trên núi hay ở đồng bằng) mà em quan sát được.
sông, trên núi hay ở đồng bằng) mà em quan sát được.
Gợi ý: Khi miêu tả, cần tập trung vào các chi tiết
sau (chú ý vào những nét riêng ở mỗi miền):
sau (chú ý vào những nét riêng ở mỗi miền):
– Quang cảnh lúc mặt trời chưa lên? (cả không gian trong
một mầu mờ mờ trắng đục).
một mầu mờ mờ trắng đục).
– Mặt trời nhú dần lên như thế nào? (suy nghĩ để lựa chọn
được những hình ảnh so sánh độc đáo).
được những hình ảnh so sánh độc đáo).
– Không gian cảnh vật lúc mặt trời lên có gì đổi khác?